Trong các di tích lịch sử văn hóa, một số dòng họ ở tỉnh Bắc Giang hiện còn lưu giữ hàng nghìn đạo sắc do các triều vua phong kiến phong, ban, tặng cho bề tôi có công với nước hay các vị thần “lẫm trứ linh ứng” được các địa phương tôn thờ ở các đình, đền, miếu, phủ.
Sắc phong được lưu giữ tại đền YSơn – Hoà Sơn (Hiệp Hoà). Ảnh: ANH TUẤN
Ngoài ra, trong dân gian còn tồn tại, lưu hành một số loại văn bản khác cũng gọi là sắc phong như: sắc phong của thầy cho đệ tử tòng nghiệp, sắc phong nhà Phật trong nhà chùa có ảnh hưởng tam giáo đồng nguyên… Các loại sắc ấy đều rất khác nhau cả về hình thức, nội dung cũng như đối tượng ban hành, mục đích ban hành… Bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới loại sắc phong thần và sắc phong cho bề tôi có công với nước do các triều vua phong kiến Việt Nam ban hành cho các cá nhân và các làng xã tỉnh Bắc Giang dưới thời phong kiến.
Sắc phong thần là loại sắc còn gặp nhiều nhất và đều được viết bằng chữ Hán cổ. Loại sắc này thường tồn tại cùng với một loại văn bản khác nữa đó là thần tích, văn tế, văn cúng… Vì một công trình tín ngưỡng nào được xem như được công nhận chính thức thì đối tượng thờ cúng phải có lai lịch rõ ràng, phải linh thiêng, phải âm phù hiển ứng và quý nhất phải được triều đình phong kiến ban, phong sắc để thờ và lai lịch thần phải được văn bản hóa thành thần tích.
Sắc phong cho các bề tôi có công trạng được triều đình ban thưởng chức, tước, phẩm hàm, quan lộc (kim – ngân, điền – trì, cân – mão, diêm – mễ, tạo lệ…) thì còn lại đến ngày nay không nhiều. Loại sắc này có quy định chặt chẽ ở ngôn từ: Nếu bề tôi được thưởng khi còn đang làm quan thì gọi là phong, nếu đã trí sĩ thì gọi là ban, nếu người đó đã mất mà được truy phong thì gọi là tặng. Gia tộc họ Nguyễn Thế làng Hược Lâm (thôn Hạc Lâm, xã Hương Lâm, huyện Hiệp Hòa) còn lưu 4 đạo vua Cảnh Hưng phong chức tước cho Quận công Nguyễn Thế Lai; gia tộc họ Ngô, phường Mỹ Độ lưu giữ một số đạo sắc các vua thời Lê Trung Hưng phong chức, tước cho các vị công, hầu là tổ tiên dòng họ; Đình làng Nguyễn (Nguyễn Xá, Mai Đình, Hiệp Hòa) từng lưu 13 đạo sắc ban cho Nguyễn Xá thờ phụng Dật Quận công Nguyễn Đình Chính của các triều vua Lê Trung Hưng nửa sau thế kỷ XVIII và thời Nguyễn, nhưng rất tiếc đến năm 1996 thì bị kẻ gian trộm mất nay vẫn chưa tìm lại được.
Trong nội tự các di tích tín ngưỡng dân gian thì sắc phong thần được xem như “linh văn” tối thượng và bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng, linh thiêng nhất ngay dưới bài vị thần. Bởi sắc phong là một văn bản đặc biệt do vua ban hành tới làng xã, chủ di tích có địa chỉ cụ thể. Nội dung sắc phong hàm chứa tên tuổi và công lao cùng mỹ tự, phẩm cấp của các vị thần được các triều vua phong, ban, tặng (nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng tôn thần đại vương). Qua các đạo sắc phong thần của các triều đại phong kiến cho thấy sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của nhà nước đến vấn đề tín ngưỡng dân gian, đồng thời biểu thị sự tôn vinh của vương triều với dân trăm họ. Nhiều đạo sắc phong thần chứa đựng một số thông tin bổ sung, góp phần lý giải một số tồn nghi trong lịch sử.
Nhân vật được tôn thần trên quê hương Bắc Giang qua sắc phong ghi lại khi là nhân thần, khi thiên thần, mộc thần… (theo cách phân loại khác còn gọi là phúc thần, thiên thần và tà thần). Các nhân thần là những người thật, lúc sống có công với nước, với dân và được tôn thờ như thần.
Nhân thần bao gồm nhiều tầng lớp người trong xã hội: Có khi là bậc vua chúa (Hai bà Trưng, Bố Cái đại vương, Hưng Đạo đại vương…), có khi là bậc công khanh, dòng dõi vua chúa (các công chúa nhà Lý, Thiều Dương công chúa, Lê Thị Ngọc Khanh, Tri biên đầu Thượng tướng quân Vũ Thành, Khang Quốc công Phạm Đình Liêu, Dật Quận công Nguyễn Đình Chính, Hiển Quận công Dương Quốc Cơ…) và không ít là những người dân bình thường có công khai hoang lập làng, truyền dạy nghề thủ công, có công đức với cộng đồng gắn liền với lịch sử làng xã cổ truyền. Tiêu biểu ở đền Trinh Nữ, xã Thái Đào, huyện Lạng Giang thờ người thiếu nữ tên là Hà Thị Bên, do bị tên cường đạo làm nhục quyết giữ trọn trinh tiết mà tự vẫn, sau âm phù cho dân làng mà được tôn thờ và được vua Minh Mệnh tặng sắc và tặng khen 4 chữ “Hà Thị trinh tiết”.
Các thiên thần bao gồm: Thần núi, thần sông, thần đá, thần cây… được nhân cách hóa thành người, có lai lịch rõ ràng đầy đủ như người thật. Ở Bắc Giang vài trăm di tích thờ thánh Cao Sơn – Quý Minh trên mọi miền xuôi ngược. Đây là hiện tượng thờ thần núi tiêu biểu nhất và để lại nhiều sắc phong nhất. Nhiều nơi thờ thánh Tam Giang. Ngọ Tiên Nương, Hà Bá đại vương, thần độc Cước là các vị thần sông nước… Rồi có nơi thờ thần đá như hiện tượng thờ Thạch linh thần tướng ở vùng Tiên Lát (Việt Yên); thần cây như: thần Dung thụ đại vương ở Tiên Nhiêu (Lục Nam) và rất nhiều di tích thờ chúa Liễu Hạnh cũng lưu lại sắc phong.
Là loại văn bản đặc biệt nên sắc phong được viết trên nền một loại giấy rất tốt, đó là giấy xuyến chỉ, còn gọi là giấy sắc. Tuỳ từng thời kỳ, từng triều đại mà yêu cầu về độ dày, mỏng, dài rộng của phôi sắc khác nhau. Hình thức trình bày, hoạ tiết trang trí, kiểu chữ viết trên nền sắc cũng thay đổi theo từng triều đại. Mỗi một đơn vị sắc phong người ta ngọi là một đạo sắc, kích thước của tờ giấy sắc có độ dài, rộng trung bình trong khoảng 110 cm x 45 cm (sắc thời Lê), có khi 115 cm x 50 cm (thời Nguyễn). Ở tỉnh Bắc Giang, đạo sắc có niên đại sớm nhất mà chúng tôi được biết là đạo sắc ban tặng cho Khang Quốc công Phạm Đình Liêu của vua Lê Thần Tông ban năm Dương Hoà thứ 5 (1639) được hậu duệ họ Phạm ở thôn Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang lưu giữ cùng nhiều đạo sắc khác. Những đạo sắc được vua Khải Định ban phong ngày 25 tháng Bảy năm Khải Định thứ 9-1924 còn nhiều nhất ở các làng xã và đây cũng là lần ban sắc cuối cùng của vua Khải Định cũng là sự cáo chung của các triều đại phong kiến Việt Nam về việc ban tặng sắc cho các vị thần thờ phụng ở các địa phương trong cả nước.
Nguyễn
Văn Phong
Nguồn: http://baobacgiang.com.vn/16/52084.bgo, 2/2/2010